Skip to main content

Zuihō (tàu sân bay Nhật) – Wikipedia tiếng Việt



Japanese Aircraft Carrier Zuiho.jpg
Tàu sân bay Zuihō
Phục vụ (Nhật Bản)
Naval Ensign of Japan.svg
Tên gọi:
Takasaki
Đặt lườn:
1934 như là tàu chở dầu Takasaki
Hạ thủy:
1935
Hoạt động:
tháng 1 năm 1941
Đổi tên:
Zuihō tháng 1 năm 1940
Xếp lớp lại:
tàu sân bay tháng 1 năm 1940
Số phận:
Bị đánh đắm bởi không kích trong trận chiến mũi Engaño ngày 25 tháng 10 năm 1944
Đặc điểm khái quát
Lớp và kiểu:
Lớp tàu sân bay Shōhō
Trọng tải choán nước:
11.262 tấn (tiêu chuẩn); 14.200 tấn (đầy tải)
Độ dài:
201,45 m (660 ft 11 in) mực nước
204,8 m (671 ft 11 in) chung
Sườn ngang:
18,2 m (59 ft 8 in) mực nước
Mớn nước:
6,64 m (21 ft 9 in)
Động cơ đẩy:
2 × turbine hơi nước
2 × trục
4 × nồi hơi
công suất 52.000 mã lực (38,8 MW)
Tốc độ:
52 km/h (28 knot)
Tầm xa:
9.300 km (5.000 hải lý)
Thủy thủ đoàn:
785
Vũ trang:
8 × pháo 127 mm/40 caliber (4×2) (tháo bỏ năm 1934)
56 × pháo phòng không 25 mm
Máy bay mang theo:
30[1]

Zuihō (kanji: 瑞鳳, âm Hán-Việt: Thụy phụng, nghĩa là "chim phượng tốt lành") là một tàu sân bay hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó được đặt lườn vào năm 1934 như là tàu chở dầu tốc độ cao Takasaki nhằm mục đích tiếp liệu cho tàu ngầm. Khi Nhật Bản ý thức được tầm quan trọng của tàu sân bay, Takasaki được cải biến vào tháng 1 năm 1940 thành tàu sân bay Zuihō.

Zuihō là chiếc tàu chị em của chiếc Shōhō. Lực lượng không quân phối thuộc bao gồm 16 chiếc máy bay tiêm kích Mitsubishi A6M "Zero" và 14 chiếc máy bay ném bom bổ nhào Aichi D3A "Val".[1]Zuihō bị máy bay ném bom Mỹ đánh chìm trong trận chiến vịnh Leyte.





Zuihō được đưa ra hoạt động cùng Hạm đội Liên hợp Nhật Bản vào tháng 1 năm 1941 và được bố trí đến Đội Tàu sân bay 3 cùng với chiếc tàu sân bay Hōshō. Vào tháng 12 năm 1941, nó tham gia tấn công vào quần đảo Philippine, và vào tháng 1 năm 1942 nó hỗ trợ cho việc chiếm đóng Đông Ấn thuộc Hà Lan.

Zuihō từng tham dự trận Midway diễn ra vào tháng 6 năm 1942, nhưng chỉ trong lực lượng của hạm đội hỗ trợ và không đối đầu trực tiếp cùng các tàu sân bay Mỹ. Sau đó vào tháng 10 năm 1942, nó được bố trí vào Đội Tàu sân bay 1 cùng ShōkakuZuikaku. Trong trận chiến quần đảo Santa Cruz, một máy bay ném bom của chiếc Enterprise đã đánh trúng và phá hỏng sàn đáp của chiếc Zuihō.

Trong khoảng thời gian từ tháng 1 đến tháng 2 năm 1943, Zuihō cùng với các tàu sân bay JunyōZuikaku hỗ trợ việc triệt thoái lực lượng Nhật khỏi Guadalcanal. Đến tháng 2 năm 1944, nó tham gia trận chiến biển Philippine.

Ngày 24 tháng 10 năm 1944 trong trận chiến vịnh Leyte, nó tham gia cùng các tàu sân bay Chiyoda, ChitoseZuikaku. Mang theo rất ít máy bay, nó được đưa ra làm vật hy sinh để "nhữ mồi" hạm đội tàu sân bay Mỹ tách khỏi lực lượng tàu chiến chủ lực của Nhật Bản. Trong trận chiến mũi Engaño, một đợt máy bay ném bom Mỹ đã đánh trúng sàn đáp của chiếc Zuihō. Sau khi các hư hỏng này được sửa chữa, ba đợt tấn công khác cuối cùng đã đánh chìm chiếc Zuihō.



Zuiho1944.png

Như một tàu tiếp liệu tàu ngầm


Như một tàu sân bay hạng nhẹ





Tọa độ: 19°19′59″B 125°15′00″Đ / 19,333°B 125,25°Đ / 19.333; 125.250


Comments

Popular posts from this blog

Rad (đơn vị) – Wikipedia tiếng Việt

Đối với các định nghĩa khác, xem Rad. Rad là đơn vị liều bức xạ tuyệt đối, ký hiệu là rd . Rad được đưa ra lần đầu tiên vào năm 1918 với ý nghĩa là "lượng tia X khi bị hấp thụ sẽ gây ra sự phá hủy tế bào". Trong hệ CGS vào năm 1958, rad được định nghĩa là liều tạo ra được năng lượng 100 erg được hấp thụ bởi một gam vật chất. Nó đã được xác định lại trong hệ SI vào năm 1970 với ý nghĩa là liều lượng gây ra năng lượng 0,01 joule được hấp thụ bởi 1 kg vật chất [1] [2] . 1 r d = 0 , 01 G y = 0 , 01 m 2 s 2 = 0 , 01 J k g {displaystyle mathrm {1,rd=0{,}01,Gy=0{,}01,{frac {m^{2}}{s^{2}}}=0{,}01,{frac {J}{kg}}} } Bây giờ, trong hệ SI người ta thường dùng đơn vị gray Gy hơn.

Kodi (phần mềm) - Wikipedia

Kodi Nhà phát triển XBMC Foundation Bản phát hành ban đầu 2002 (với tư cách là Xbox Media Player), 2003 [1] (dưới dạng Xbox Media Center) s) [±] Android 17.6 "Krypton" / 14 tháng 11 năm 2017 ; 12 tháng trước ( 2017-11-14 ) [2] Windows 17.6 / Tiểu thuyết ber 14, 2017 ; 12 tháng trước ( 2017-11-14 ) [3] iOS 17.6 "Krypton" / 14 tháng 11 năm 2017 ; 12 tháng trước ( 2017-11-14 ) [4] Kho lưu trữ Được viết bằng lõi C ++ với các tập lệnh C ++ (nhị phân) hoặc Python tiện ích mở rộng) từ các nhà phát triển bên thứ ba [ cần trích dẫn ] Hệ điều hành Windows Vista và sau đó, macOS, Android, iOS, tvOS (Apple TV OS), Linux , Xbox One và FreeBSD Nền tảng ARM, ARM64, MIPS, PowerPC, IA-32 (x86) và x64 (x86-64) Có sẵn trong 12 (75 bao gồm cả bản dịch chưa hoàn chỉnh) ngôn ngữ [5] Loại Phần mềm trình phát phương tiện, nền tảng TV thông minh, trình phát phương tiện kỹ thuật số, máy quay video kỹ thuật số Giấy phép GNU G...

Arakawa, Tōkyō – Wikipedia tiếng Việt

Arakawa ( 荒川区 , Arakawa-ku ? , Hoang Xuyên khu ) là một trong 23 khu đặc biệt ở Tokyo, Nhật Bản. Khu này lấy tên từ con sông Arakawa. Các khu giáp ranh gồm: Adachi, Kita, Bunkyo, Taito vàd Sumida. Arakawa có quan hệ kết nghĩa với Donaustadt ở Viên, Áo, và với Corvallis, Oregon, Hoa Kỳ. Tại Nhật Bản, khu này có quan hệ kết nghĩa với 9 thành phố, thị xã và làng. Dân số ước tính đến ngày 1 tháng 11 năm 2005 của Arakawa là 191.467 người và mật độ dân số là 18.800 người trên một per km². Tổng diện tích là 10,20 km². Arakawa nằm ở đông bắc của Tokyo. Khu này có hình dạng dài và hẹp, kéo dài theo hướng tây đông. Sông Sumida tạo thành biên giới phía bắc. Các khu khác bao bọc xung quanh khu này: về phía bắc là Adachi; về phía tây là Kita; về phía tây nam là Bunkyo. Phía nam của Arakawa là Taito, và đông nam là Sumida. Trong thời kì Edo, đây là khu vực nông nghiệp. Kể từ thời kì Meiji, đây đã trở thành khu vực công nghiệp. Năm 1932, khu vực này trở thành một trong 35 quận của Tokyo. Machiya A...